Thực trạng và giải pháp thúc đẩy phát triển sản xuất, sinh kế vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030

Theo thống kê, Việt Nam có 53 dân tộc thiểu số với tổng dân số 14,1 triệu người, gần 3 triệu hộ, chiếm 14,7% dân số cả nước;có2.139 xãĐBKK, xã biên giới, xã ATK thuộc 46 tỉnh. có 83/85 huyện nghèo;
Giai đoạn 2016 - 2020, các chính sách về dân tộc đã tích hợp, lồng ghép các chương trình, chính sách có cùng mục tiêu, đối tượng, địa bàn thành các chương trình, chính sách lớn nhằm tập trung nguồn lực, đảm bảo thực hiện đồng bộ, có hiệu quả. Hệ thống chính sách giai đoạn này, đã dần hoàn thiện và bao phủ toàn bộ các vấn đề DTTS như về chính sách đặc thù, chính sách theo vùng, theo ngành, lĩnh vực, trong đó tập trung lĩnh vực giảm nghèo, phát triển sản xuất trong nông- lâm nghiệp- thủy sản, giáo dục đào tạo, văn hóa.
Đến nay, qua rà soát các chính sách liên quan đến hỗ trợ phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp vùng DTTS&MN còn hiệu lực thi hành gồm 15 văn bản bao gồm: 03 Nghị quyết, 01 Nghị định, 12 Quyết định, 6 Thông tư và một số văn bản có liên quan khác.
Các chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp đang được Đảng và Nhà nước đánh giá là một trong những giải pháp quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS&MN. Giai đoạn 2016 -2020 với chủ trương tập trung thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, trong đó đổi mới tổ chức sản xuất theo hướng hợp tác, liên kết chặt chẽ trong chuỗi giá trị từ sản xuất đến tiêu thụ giữa nông dân, HTX, tổ hợp tác với doanh nghiệp, trong đó doanh nghiệp giữ vai trò nòng cốt. Hướng dẫn và hỗ trợ nông dân hình thành các HTX, tổ hợp tác kiểu mới; tạo môi trường thuận lợi khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, tham gia liên kết theo chuỗi,...Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp nói chung và vùng DTTS&MN nói riêng.
Kết quả tái cơ cấu ngành nông nghiệp đang chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, đảm bảo chất lượng nông sản, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường, cơ cấu lại ngành nông nghiệp đạt nhiều kết quả khả quan. Ước 10 tháng đầu năm 2020, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng nông lâm thủy sản ước đạt gần 59,15 tỷ USD, trong đó xuất khẩu (XK) đạt 33,6 tỷ USD, tăng 1,1% so với cùng kỳ năm 2019; nhập khẩu (NK) ước khoảng 25,6 tỷ USD, giảm 1,5%; xuất siêu trên 7,9 tỷ USD, tăng 10,7% so với cùng kỳ năm 2019. Hiện đã có 08 nhóm, mặt hàng xuất khẩu trên 1 tỷ USD và 06 nhóm, mặt hàng có giá trị xuất khẩu trên 02 tỷ USD (cà phê 2,3 tỷ USD, gạo 2,6 tỷ USD, hạt điều đạt 2,6 tỷ USD, rau quả đạt 2,7 tỷ USD, tôm 3,2 tỷ USD, sản phẩm gỗ đạt 7,3 tỷ USD).
 Kết quả thực hiện chính sách bảo vệ phát triển rừng:  Đã có trên 155.000 hộ nhận khoán bảo vệ rừng với tổng diện tích giao khoán trên 2 triệu ha và 18.000 hộ được hỗ trợ trồng rừng, hỗ trợ kinh phí khoán chăm sóc, bảo vệ rừng, hỗ trợ gạo, vắc xin tại miền núi. Điều này góp phần quan trong trong việc bảo vệ và phát triển rừng, đảm bảo môi trường sinh thái.
Kinh tế nông thôn, nhất là vùng đặc biệt khó khăn (ĐBKK), vùng dân tộc thiểu số và miền núi có chuyển biến tích cực. Một số địa phương đã chủ động phát huy tiềm năng, lợi thế vùng, miền, đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi kém hiệu quả sang các cây, con có giá trị kinh tế cao, hình thành được vùng sản xuất quy mô tập trung (điển hình như tỉnh Sơn La, tổng diện tích cây ăn trái đến năm 2020 đạt khoảng 100.000 ha, từ năm 2015 đến nay, tăng bình quân 35,6%/năm, dần trở thành vựa trái cây lớn của cả nước). Ở các tỉnh miền núi, rừng đã gắn bó với đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số. Người dân được giao đất, giao rừng đã có ý thức hơn trong công tác chăm sóc, bảo vệ rừng gắn với phát triển các sản phẩm khác từ rừng, góp phần cải thiện sinh kế, xoá đói giảm nghèo và nâng cao thu nhập theo Nghị định số 75/2015/NĐ-CP.
Phát triển nông thôn và xây dựng nông thôn mới có kết quả tích cực: Hiện cả nước có 5.402 xã (60,82%) đạt chuẩn nông thôn mới, có 191 xã đạt chuẩn NTM nâng cao; có 167/664 đơn vị cấp huyện thuộc 50 tỉnh, thành phố được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới. Riêng đối với vùng ĐBKK xây dựng NTM, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã tham mưu Thủ tướng Chính phủ quy định hệ số ưu tiên phân bổ vốn ngân sách Trung ương cho các xã ĐBKK và xã dưới 05 tiêu chí cao hơn 4-5 lần so với các xã khác; ban hành 08 Quyết định, 04 Đề án hỗ trợ các địa phương vùng ĐBKK xây dựng NTM.
Đến nay, đã có 08/64 huyện nghèo thoát khỏi tình trạng ĐBKK và 315/2.430 xã ĐBKK, xã ATK thuộc Chương trình 135 và xã ĐBKK vùng bãi ngang ven biển và hải đảo đạt chuẩn NTM (đạt 13%);15/108 xã (13,9%) thuộc 04 Đề án xây dựng nêu trên đã đạt chuẩn NTM; 337/3.513 thôn, bản ĐBKK thuộc Đề án  theo Quyết định số 1385 được công nhận đạt chuẩn NTM(đạt 9,6%). Tổng nguồn lực giai đoạn 2016-2020 khoảng 791.909 tỷ đồng (bằng 38,1% của cả nước).
Một số địa phương đã xây dựng được các mô hình hợp tác, liên kết hiệu quả theo chuỗi sản phẩm đã phát huy hiệu quả lợi thế phát triển kinh tế. Thực hiện Quyết định số 490/QĐ-TTg ngày 07/5/2018 của Thủ tướng Chính phủ, đến nay, 100% các địa phương đã ban hành Đề án triển khai Chương trình OCOP cấp tỉnh. Trên địa bàn các tỉnh thuộc vùng ĐBKK đã chuẩn hoá khoảng 1.061 sản phẩm OCOP (chiếm 50,8% của cả nước). Nhiều địa phương đã khai thác hiệu quả các sản phẩm đặc sản, truyền thống gắn với lợi thế để phát triển hiệu quả các sản phẩm OCOP gắn với mô hình tổ chức sản xuất phù hợp như hợp tác xã, hộ sản xuất, nổi bật là các tỉnh Bắc Kạn,Thanh Hóa, Gia Lai, Sóc Trăng. Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đã đạt những hiệu quả nhất định, góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho đồng bào DTTS, các hộ nghèo và cận nghèo. Các loại hình tổ chức sản xuất được đổi mới phù hợp. Nhiều mô hình HTX nông nghiệp hoạt động có hiệu quả ngày càng tăng. Tính đến tháng 11/2020, cả nước có 16.479 HTX nông nghiệp. Đến nay, cả nước thực hiện các chuỗi liên kết - chế biến - tiêu thụ sản phâm nông nghiệp với 4 tác nhân tham gia liên kết với 271 tổ chức khoa học, 586.585 hộ nông dân, 4.028 hợp tác xã nông nghiệp,1.867 doanh nghiệp tham gia trong sản xuất, thu hoạch chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.
Từ những kết quả nêu trên đã góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo bình quân cả nước giai đoạn 2016-2020 bình quân 1,55%/năm; tỷ lệ hộ nghèo tại các huyện nghèo giảm 5,65%/năm, các xã ĐBKK vùng DTTS&MN giảm bình quân khoảng 4%/năm. Thu nhập bình quân hộ nghèo khu vực nông thôn đến cuối năm 2018 tăng khoảng 1,4 lần so với cuối năm 2015, dự kiến đến cuối năm 2020 tăng khoảng 1,6 lần.
Nghị quyết số 88/2019/QH14, Nghị quyết số 120/2020/QH 14của Quốc hội về phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030 là chủ trương đúng đắn và toàn diện để phát triển kinh tế - xã nội vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn tới, trong đó có nội dung ưu tiên là: phát triển sản xuất, sinh kế tạo việc làm nâng cao thu nhập và đời sống cho đồng bào dân tộc thiểu số.
Thời gian tới: Toàn cầu hóa, hội nhập sâu rộng luôn tạo ra những thách thức mạnh mẽ đối với cả nước nói chung và vùng dân tộc thiểu số nói riêng; cùng với ảnh hưởng của biến đổi khí hậu ngày càng khắc nghiệt, diễn biến thời tiết đang ngày càng phức tạp hơn, tần suất và cường độ thiên tai ngày càng lớn hơn, hậu quả là mức độ ảnh hưởng tới sản xuất nông nghiệp và đời sống của người dân, đồng bào dân tộc thiểu số càng nghiêm trọng hơn.
Nhưng cũng có những thuận lợi và thách thức đó là: Khoa học công nghệ phát triển, đặc biệt với cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ IV với công nghệ số, công nghệ viễn thám, công nghệ sinh học; Yêu cầu thị trường nông sản ngày càng cao và đa dạng; Chênh lệch thu nhập và điều kiện sống giữa vùng dân tộc thiểu số và vùng khác, giữa các dân tộc với nhau; Trình độ, tay nghề của người DTTS còn thấp.
 Mặt khác vùng Dân tộc thiểu số và miền núi có điều kiện khó khăn, quy mô sản xuất manh mún, ít có điều kiện tiếp cận thị trường; người dân vẫn quen phong tục tập quán canh tác truyền thống, hội nhập bị động do đó có khả năng bị tổn thương cao, khả năng chống chịu kém, chính sách bảo hiểm nông nghiệp, bảo hiểm tài sản chưa có.
Do đó cần có giải pháp đồng bộ để triển khai Chương trình phát triển kinh tế xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi  nói chung và phát triển sản xuất sinh kế để nâng cao thu nhập cho người dân với các nọi dung sau:
 Một là: “Phát triển kinh tế nông, lâm nghiệp gắn với bảo vệ rừng và nâng cao thu nhập cho người dân” với mục tiêu: Tạo việc làm, thu nhập cho người dân làm nghề rừng, gắn với giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới. Cụ thể đến năm 2025, tạo việc làm, thu nhập cho người dân làm nghề rừng; hỗ trợ phát triển kinh tế nông nghiệp, lâm nghiệp gắn với bảo vệ rừng cho khoảng 3200 thôn ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; tăng mức thu nhập bình quân của người dân tộc thiểu số trên 2 lần so với năm 2020; giảm tỷ lệ hộ nghèo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi mỗi năm trên 3%. Đến năm 2030, tăng mức thu nhập bình quân của người dân tộc thiểu số đến năm 2030 bằng ½ bình quân chung cả nước; 80% số hộ nông dân người dân tộc thiểu số làm kinh tế nông lâm nghiệp hàng hóa. Để đạt được mục tiêu trên cần: Sửa đổi, bổ sung Nghị định số 75/2015/NĐ-CP ngày 09/9/2015 của Chính phủ về cơ chế, chính sách bảo vệ và phát triển rừng, gắn với chính sách giảm nghèo nhanh, bền vững và hỗ trợ đồng bào DTTS giai đoạn 2015-2020 theo hướng: Bổ sung, điều chỉnh chính sách hỗ trợ đặc thù cho nhóm đối tượng đồng bào DTTS, nâng mức hỗ trợ khoán chăm sóc bảo vệ rừng từ 400.000 đồng hiện nay lên khoảng 01 triệu đồng/ha/năm; chính sách trồng dược liệu dưới tán rừng, phát triển nông lâm nghiệp kết hợp.
 Hai là:  Hỗ trợ phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp vùng dân tộc thiểu số và miền núi phát huy thế mạnh của các vùng sinh thái nông nghiệp, lợi thế của từng địa phương, với các loại cây, con đa dạng; phù hợp với mục tiêu phát triển sản xuất nông nghiệp để sản xuất hàng hóa theo chuỗi giá trị và tạo sự chủ động cho các địa phương, cộng đồng và người dân trong phát triển sinh kế.
Ba là: Phát triển sản xuất các loại cây trồng, vật nuôi chủ lực, có giá trị kinh tế cao; phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa thông qua: hỗ trợ lãi suất; hỗ trợ cây giống và chi phí vật tư phân bón; hỗ trợ hoạt động quản lý dự án gồm tập huấn hướng dẫn kỹ thuật, kiểm tra, nghiệm thu. Định mức hỗ trợ áp dụng theo mức cao nhất của chính sách hiện hành.
Bốn là: Chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng từ sản xuất nông nghiệp sang phát triển kinh tế nông nghiệp, đẩy mạnh kinh tế tập thể (thành lập các hợp tác xã, tổ hợp tác nông nghiệp), chú trọng dịch vụ nông nghiệp như du lịch nông nghiệp; phát triển nông nghiệp công nghệ cao thích ứng với đặc thù khí hậu của khu vực, thích ứng với biến đổi khí hậu nhất là hạn hán và lũ lụt, sạt lở đất tại miền Trung;
Bốn là:  Phát triển đào tạo nguồn nhân lực nông nghiệp như công tác đào tạo nghệ, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, khuyến nông cho đồng bào dân tộc thiếu số và miền núi;
Năm là: Lồng ghép để gia tăng nguồn lực, triển khai hiệu quả 03 Chương trình mục tiêu quốc gia: (1) phát triển kinh tế xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi; (2) xây dựng nông thôn mới và (3) Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo và an sinh xã hội bền vững giai đoạn 2021-2025 tại các địa phương./.

 Phòng Giảm nghèo và An sinh xã hội nông thôn


© Bản quyền thuộc về Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn - Bộ Nông nghiệp và Môi trường.

Đ/c: Số 02 Ngọc Hà, Ba Đình, TP. Hà Nội.

Chịu trách nhiệm: Ông Lê Đức Thịnh - Cục Trưởng

Tel: 024.38438794 / Fax: 024.38438791 / Email: cucktht@gmail.com

Technology Supported by ECPVietnam