Triển khai nhiệm vụ tại Nghị quyết số 76/2014/QH13 về đẩy mạnh thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững đến năm 2020, Bộ NN&PTNT đã hoàn thành việc rà soát các văn bản quy phạm pháp luật về hỗ trợ phát triển sản xuất để giảm nghèo theo hướng tập trung chính sách, khắc phục sự chồng chéo, trùng lắp. Trên cơ sở kết quả rà soát Bộ NN&PTNT đã ban hành 2 Thông tư: Thông tư số 52/2014/TT-BNNPTNT ngày 29/12/2014 về hướng dẫn thực hiện Quyết định số 2621/QĐ-TTg ngày 31/12/2013 của Thủ tướng Chính phủ về sửa đổi một số mức hỗ trợ phát triển sản xuất quy định tại Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ về hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững cho các huyện nghèo; Thông tư số 46/2014/TT-BNNPTNT ngày 05/12/2014 hướng dẫn thực hiện nội dung hỗ trợ phát triển sản xuất quy định tại Quyết định số 551/QĐ-TTg ngày 04/4/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình 135 về hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng, hỗ trợ phát triển sản xuất cho các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu, các thôn, bản đặc biệt khó khăn.
Mặc dù 2 Thông tư hướng dẫn thực hiện 2 chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất ở 2 chương trình khác nhau (CT 30a, CT 135) nhưng đều thống nhất cơ chế thực hiện bằng cách hỗ trợ theo dự án (hay phương án sản xuất), có sự tham gia của người dân từ khâu xây dựng đến khi thực hiện dự án. Cách hỗ trợ này thay cho cách hỗ trợ sản xuất theo kế hoạch từ trên đưa xuống, trong đó: từ quy hoạch sản xuất và nhu cầu của người dân, UBND cấp xã dự kiến phương án của dự án hỗ trợ phát triển sản xuất; tổ chức họp dân để bàn bạc xây dựng dự án; người dân đăng ký tham gia; xã hoàn thiện dự án nói rõ mục tiêu, nội dung hỗ trợ, đóng góp của người dân, phương thức thực hiện để trình UBND cấp huyện phê duyệt; khi có phê duyệt dự án và hỗ trợ từ ngân sách mới tổ chức thực hiện.
Xây dựng chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất để giảm nghèo chung cả nước cho giai đoạn 2016-2020.
Thực hiện Nghị quyết số 76/2014/QH13 của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2324/QĐ-TTg ngày 18/12/2014 giao NN&PTNT rà soát tích hợp chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất để giảm nghèo theo hướng: Xây dựng chính sách hỗ trợ sản xuất chung đối với hộ nghèo, hộ cận nghèo, trong đó có các mức hỗ trợ ưu tiên cho hộ dân tộc thiểu số, hộ nghèo trên địa bàn các huyện, xã nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo”, trên cơ sở tích hợp chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất thuộc chương trình 135, 30a, Chương trình giảm nghèo. NN&PTNT đã rà soát, tích hợp các chính sách trên thành một chính sách chung thực hiện cho cả nước đưa vào các tiểu dự án, dự án hỗ trợ phát triển sản xuất, đa dạng hóa sinh kế và nhân rộng mô hình giảm nghèo thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020 (các vùng, miền đều giống nhau về đối tượng hỗ trợ, nội dung hỗ trợ và cơ chế thực hiện) và phân cấp cho Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phê duyệt mức hỗ trợ phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương.
Thực hiện Quyết định số 1259/QĐ-TTg ngày 22/08/2017 về rà soát và xây dựng chính sách, NN&PTNT đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 387/QĐ-TTg ngày 10/4/2018 về việc bãi bỏ Quyết định số 2621/QĐ-TTg ngày 31/12/2013 của Thủ tướng chính phủ về sửa đổi một số mức về hỗ trợ phát triển sản xuất theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP. Đồng thời trình Chính phủ ban hành Nghị định số 83/NĐ-CP ngày 24/5/2018 về Khuyến nông thay thế cho Nghị định số 02/2010/NĐ-CP ngày 8/1/2010 của Chính phủ về khuyến nông theo hướng, phân định rõ ngân sách, nội dung và phương pháp thực hiện các hoạt động khuyến nông cho đối tượng người nghèo và các địa bàn nghèo; phối kết hợp tốt hơn giữa khuyến nông với các hỗ trợ tạo sinh kế khác và với Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững.
Tham mưu cho Chính phủ ban hành Nghị định số 75/2015/NĐ-CP ngày 09/9/2015 về cơ chế, chính sách bảo vệ và phát triển rừng, gắn với chính sách giảm nghèo nhanh, bền vững và hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2015-2020, gồm các chính sách: Hỗ trợ khoán chăm sóc và bảo vệ rừng với mức hỗ trợ 400.000 đồng/ha/năm (mức cũ 300.000 đồng/ha/năm), cơ chế thực hiện cho cá nhân và cộng đồng; hỗ trợ trồng rừng và phát triển rừng với mức hỗ trợ từ 5.000.000 đến 10.000.000 đồng/ha; chính sách trợ cấp gạo trồng rừng thay thế nương rẫy, chính sách tín dụng cho trồng rừng ...
Phối hợp với Bộ Tài chính ban hành Thông tư liên tịch số 93/2016/TTLT-BCT-BNNPTNT ngày 27/6/2016 hướng dẫn chế độ quản lý, sử dụng kinh phí sự nghiệp thực hiện Nghị định số 75/2015/NĐ-CP;
Ban hành Thông tư số 18/2017/TT-BNNPTNT ngày 09/10/2017 về hướng dẫn thực hiện nội dung hỗ trợ phát triển sản xuất, đa dạng hóa sinh kế và nhân rộng mô hình giảm nghèo thuộc Chương trình MTQGGN bền vững giai đoạn 2016-2020.
Hệ thống chính sách và các hướng dẫn thực hiện cho hoạt động hỗ trợ phát triển sản xuất thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2016-2020 đầy đủ và thống nhất tạo thuận lợi cho các địa phương tổ chức thực hiện.
Kết quả thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất để giảm nghèo giai đoạn 2016 - 2020
a) Số dự án hiện đang được triển khai
Theo số liệu tổng hợp từ 41 báo cáo đánh giá của các tỉnh, trong giai đoạn từ năm 2016 đến hết năm 2019 đã có tổng số 14.825 dự án giảm nghèo được triển khai. Trong đó, số dự án được triển khai năm 2016 là 1.907 dự án, năm 2017 là 2.355 dự án, năm 2018 có 6.256 dự án, năm 2019 là 4.307 dự án.
Tính theo loại dự án, trong tổng số 14.825 dự án giảm nghèo có 4.441 dự án 1 tiểu dự án 3 (chiếm 29,96% tổng số dự án), 9.484 dự án 2 – tiểu dự án 2 (chiếm 63,97% tổng số dự án) và 900 dự án 3 (chỉ chiếm 6,07% tổng số dự án).
b) Số người được hỗ trợ
Tổng hợp ở 41 tỉnh từ năm 2016 đến năm 2019 đã có trên 1.522 nghìn hộ gia đình được hỗ trợ. Trong đó, tổng số hộ được hỗ trợ năm 2016 là 457 nghìn hộ, năm 2017 là gần 340 nghìn hộ, năm 2018 là trên 508 nghìn hộ và năm 2019 là trên 217 hộ
Xét theo loại dự án, khoảng 425.414 người được nhận hỗ trợ từ dự án 1 tiểu dự án 3 (chiếm 32,5% tổng số người được hỗ trợ), 854.503 người nhận được hỗ trợ từ dự án 2 tiểu dự án 2 (chiếm 67,8%) và gần 25.156 người nhận được hỗ trợ từ dự án 3 (chỉ chiếm khoảng 1,8% tổng số người được hỗ trợ).
c) Nội dung của các dự án
Các dự án hỗ trợ phát triển sản xuất tập trung hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp, cụ thể:
Các dự án trồng trọt: tập trung vào hỗ trợ giống cây lương thực, cây ăn quả như lúa, ngô, cam, chuối, sắn, mía, chè, rau, cây dược liệu, cây tre điền trúc; hỗ trợ phân bón và hỗ trợ thuốc bảo vệ thực vật, thuốc trừ sâu.
Các dự án chăn nuôi: hỗ trợ giống bò, gà, vịt, heo, dê sinh sản hoặc thương phẩm; hỗ trợ làm chuồng trại chăn nuôi; hỗ trợ mua thức ăn chăn nuôi; hỗ trợ mua vắc xin tiêm phòng cho gia súc.
Các dự án nuôi trồng thủy sản: hỗ trợ nuôi cá chép cá trắm, cá lồng, cá rô phi, nuôi ngao thương phẩm, nuôi tôm quảng canh; hỗ trợ cải tạo ao nuôi trồng thủy sản.
Các dự án hỗ trợ mua máy móc thiết bị, dụng cụ phục vụ sản xuất: như hỗ trợ mua máy bơm nước, máy phun thuốc, máy cấy, máy làm đất và xuồng composite.
Các dự án hỗ trợ chuyển giao khoa học kỹ thuật, tập huấn, đào tạo, tham quan học hỏi kinh nghiệm;
d) Kết quả thực hiện công tác bảo vệ và phát triển rừng gắn với giảm nghèo bền vững
Trong giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2019, tổng số kinh phí đã cấp để thực hiện công tác bảo vệ và phát triển rừng gắn với giảm nghèo bền vững là 617,448 tỷ đồng, bình quân 205,8 tỷ đồng/năm, góp phần hỗ trợ bảo vệ rừng cho khoảng 2,01 triệu ha rừng. Số hộ nhận khoán chăm sóc bảo vệ rừng là 311.448 người. Trong đó, trợ cấp gạo cho hộ nghèo nhận khoán chăm sóc bảo vệ rừng đã hỗ trợ cho 1.460 hộ với số lượng 545 tấn gạo, kinh phí 6,7 tỷ đồng.
Tổng hợp ở 12 tỉnh, kinh phí hỗ trợ khoán chăm sóc, khoanh nuôi, bảo vệ rừng bình quân 380 nghìn đồng/ha, bình quân là 3,1 triệu đồng/hộ. Tỉnh Nghệ An có mức khoán bình quân trên 1 hecta cao nhất, đạt 1,37 triệu đồng/ha. Tỉnh Quảng Ngãi và tỉnh Nghệ An là hai tỉnh có mức khoán trên 1 hộ dân cao nhất, đạt khoảng hơn 18 triệu đồng/ha.
e) Kết quả thực hiện hỗ trợ tiêm phòng cho gia súc và hỗ trợ đất sản xuất ở các huyện nghèo thuộc chương trình 30a
- Về tiêm phòng vắc xin các bệnh nguy hiểm đã thực hiện tiêm với 11.084.332 liều vắc xin với kinh phí 133.588 triệu đồng;
- Chính sách tạo đất sản xuất (khai hoang, phục hóa, tạo ruộng bậc thang) cho 3.912 hộ nghèo, kinh phí hỗ trợ 11.919 triệu đồng với diện tích 1.052 ha;
Đánh giá chung
a) Mặt được
Lĩnh vực hỗ trợ phát triển sản xuất cho các đối tượng nghèo và địa bàn nghèo được thực hiện theo như Nghị quyết số 76/2014/QH13 của Quốc hội đã đề ra, cụ thể:
- Thể chế chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất được rà soát, tích hợp, bãi bỏ những văn bản không còn phù hợp, tạo tính thống nhất trong chính sách và tổ chức thực hiện chính sách như thống nhất về đối tượng hỗ trợ, nội dung hỗ trợ, cơ chế thực hiện (hỗ trợ theo dự án, hỗ trợ có điều kiện, lồng ghép các nguồn vốn...); ở những địa bàn khó khăn hơn thì bổ sung thêm hoạt động hỗ trợ như huyện nghèo có thêm khoán chăm sóc bảo vệ rừng, tiêm phòng gia súc; xã đặc biệt khó khăn vùng DTTS có thêm hỗ trợ tạo đất sản xuất ... Hệ thống văn bản chính sách và hướng dẫn thực hiện được ban hành đồng bộ, thống nhất (Nghị định, Quyết định của TTCP, Thông tư hướng dẫn thực hiện chuyên môn, Thông tư hướng dẫn về tài chính). Đồng thời bãi bỏ văn bản chính sách không còn hợp (bãi bỏ 02 Quyết định của TTCP);
- Cấp tỉnh cũng đã ban hành kế hoạch, định mức hỗ trợ cụ thể phù hợp với từng địa phương. Đã có 343 văn bản của 43 tỉnh ban hành các nghị quyết, quyết định, kế hoạch và văn bản hướng dẫn, chỉ đạo thực hiện các dự án tiểu dự án hỗ trợ phát triển sản xuất để giảm nghèo;
- Phân cấp trao quyền cho cấp cơ sở thực hiện hỗ trợ phát triển sản xuất và xã hội hoá công tác bảo vệ và phát triển rừng đã được đẩy mạnh (Trung ương ban hành chính sách; cấp tỉnh, cụ thể hóa chính sách và ban hành kế hoạch chỉ đạo tổ chức thực hiện, cấp xã xây dựng và tổ chức thực hiện dự án, cấp huyện thẩm định, phê duyệt dự án và chỉ đạo kiểm tra). Cách làm này có hiệu quả tạo bước chuyển biến căn bản trong hỗ trợ phát triển sản xuất và công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng;
- Người dân được tham gia vào các quá trình xây dựng và thực hiện dự án sản xuất, kế hoạch khoán chăm sóc bảo vệ rừng, phát triển rừng nên gắn quyền lợi với trách nhiệm, tạo điều kiện để người dân yên tâm sản xuất, bảo vệ được rừng, đầu tư phát triển sản xuất, bảo vệ rừng trên diện tích rừng được giao, vì thế đời sống của người dân được cải thiện;
- Công tác tuyên truyền chính sách được thực hiện khá đồng bộ và được người dân đồng tình ủng hộ, nhận thức được nâng cao.
b) Những hạn chế và vướng mắc
Việc thực hiện hỗ trợ phát triển sản xuất đã thu được kết quả song còn có một số hạn chế và vướng mắc sau:
- Một số địa phương việc phối hợp giữa Sở Nông nghiệp và PTNT với các Sở ngành chủ trì chương trình chưa được tốt nên việc xây dựng kế hoạch và xây dựng định mức hỗ trợ chậm, còn thực hiện hỗ trợ trực tiếp, chưa chuyển sang hỗ trợ theo dự án, hoặc có hỗ trợ theo dự án nhưng làm dự án mang tính hình thức.
- Về nội dung hỗ trợ: một số địa phương còn lúng túng trong triển khai thực hiện các dự án (đến hết năm 2017 còn một số tỉnh trong giai đoạn thẩm định dự án, chưa triển khai đến người dân, năm 2018 thì đến tháng 7 vừa qua HĐND một số tỉnh mới phê duyệt định mức hỗ trợ). Công tác hướng dẫn triển khai thực hiện, tổng hợp báo cáo của địa phương còn chậm.
- Nguồn vốn hỗ trợ ít, trong khi đối tượng cần hỗ trợ nhiều nên chưa đáp ứng nhu cầu thực tế của người dân. Ngân sách của các địa phương còn hạn hẹp nên không hỗ trợ thêm cho các hộ dân trong việc thực hiện các chương trình để đạt hiệu quả cao.
- Việc chưa xác định nguồn vốn hỗ trợ thực hiện tiêm vắc xin phòng chống dịch bệnh và khoán, chăm sóc và bảo vệ rừng, hiện đang sử dụng từ nguồn Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020 đã gây lúng túng cho địa phương trong việc bố trí thực hiện các nội dung khác trong Chương trình (Bộ Tài chính đã có Công văn số 2512/BTC-HCSN ngày 07/3/2018 hướng dẫn về kinh phí mua vắc xin và hỗ trợ chăm sóc, bảo vệ rừng trong CTMTQG Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020).
- Năng lực của cán bộ cơ sở cấp xã còn nhiều hạn chế, chưa được tập huấn, đặc biệt cán bộ xã đều là cán bộ không chuyên trách là cán bộ kiêm nhiệm, thay đổi thường xuyên nên gây nhiều khó khăn trong công tác xây dựng và thực hiện dự án.
- Có nhiều chương trình dự án hỗ trợ trên cùng một địa bàn, thời điểm phân bổ vốn không giống nhau nên cơ chế lồng ghép các nguồn vốn của Chương trình trên địa bàn hạn chế và rất khó khăn.
- Việc bố trí nguồn lực thực hiện các cơ chế chính sách về bảo vệ và phát triển rừng còn hạn chế, nguồn đầu tư phát triển từ ngân ngân sách nhà nước để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ và phát triển rừng được bố trí thấp so với chỉ tiêu nhiệm vụ (chỉ đáp ứng 33% kế hoạch).
- Kinh phí bảo vệ và phát triển rừng ở các huyện nghèo lấy từ Chương trình MTQG giảm nghèo (kinh phí này được phân bổ theo tiêu chí dân số, tỷ lệ hộ nghèo, diện tích tự nhiên, đơn vị hành chính ...) trong khi diện tích bảo vệ phát triển rừng rất lớn, nên có huyện bố trí cho bảo vệ và phát triển rừng thì hết kinh phí cho phát triển sản xuất, hoặc bố trí đều cho phát triển sản xuất thì mức hỗ trợ khoán bảo vệ rừng lại thấp hơn ở vùng không khó khăn hơn.
- Số hộ dân tộc thiểu số được giao đất, giao rừng còn kiêm tốn (có khoảng 11,5% số hộ DTTS được giao và khoảng 10,7% số hộ DTTS được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng;
- Tiến độ giao rừng, cho thuê rừng gắn liền với giao đất lâm nghiệp và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp còn chậm; nhiều diện tích rừng giao cho các hộ gia đình, cá nhân chưa phát huy hiệu quả kinh tế, người dân chưa sống được bằng nghề rừng.
- Công tác quản lý, kiểm tra giám sát có nơi, có lúc chưa thực sự sâu sát và quyết liệt, thiếu kiên quyết trong việc xử lý các trường hợp vi phạm bảo vệ và phát triển rừng.