Từ sản xuất tự phát đến liên kết chuỗi giá trị hiện đại
Nghị định số 98/2018/NĐ-CP đã thúc đẩy hình thành hơn 3.500 mô hình liên kết chuỗi giá trị với sự tham gia của hơn 300.000 hộ nông dân và gần 2.000 hợp tác xã.
Bước chuyển căn bản trong tư duy liên kết nông nghiệp

Các mô hình liên kết đã được triển khai trên hầu hết các lĩnh vực sản xuất chủ lực của Việt Nam. Trong ngành lúa gạo, nhiều địa phương vùng Đồng bằng sông Cửu Long như Hậu Giang, An Giang, Đồng Tháp đã hình thành các mô hình liên kết tiêu biểu giữa doanh nghiệp Trung An với hợp tác xã sản xuất lúa đạt tiêu chuẩn SRP, xuất khẩu sang Nhật Bản. Ở lĩnh vực trái cây và rau quả, mô hình của Nafoods tại Nghệ An và Vina T&T tại Sơn La cho thấy sự thành công khi doanh nghiệp cùng hợp tác xã xây dựng vùng nguyên liệu đạt chuẩn GlobalGAP và truy xuất điện tử, đáp ứng yêu cầu của thị trường châu Âu và Hoa Kỳ. Trong chăn nuôi, các tập đoàn như TH True Milk, CP Việt Nam, De Heus, Japfa đã phát triển mô hình liên kết khép kín, áp dụng công nghệ cao và quản trị tuần hoàn, giúp nâng cao giá trị gia tăng và giảm phát thải.
Tác động của chính sách liên kết
Những kết quả đạt được từ việc triển khai Nghị định 98 không chỉ mang tính định lượng, mà còn có ý nghĩa sâu sắc về chất lượng và thể chế phát triển. Trước hết, chính sách đã góp phần thúc đẩy hình thành các chuỗi giá trị nông sản chủ lực ở cấp quốc gia và địa phương. Các ngành hàng như lúa gạo, cà phê, trái cây, thủy sản, chăn nuôi, lâm sản đều có bước phát triển rõ nét về quy mô vùng nguyên liệu và tiêu chuẩn hóa quy trình sản xuất. Các chuỗi này đã giúp giảm sự phụ thuộc vào thương lái, mở rộng thị trường xuất khẩu, đặc biệt là vào các nước có yêu cầu khắt khe như Nhật Bản, EU và Hoa Kỳ.
Về mặt kinh tế, nông dân tham gia các mô hình liên kết được hưởng lợi trực tiếp thông qua tăng thu nhập từ 10-20% so với sản xuất đơn lẻ, nhờ giảm chi phí đầu vào, tăng năng suất, đảm bảo đầu ra ổn định và có hợp đồng bao tiêu rõ ràng. Đồng thời, các doanh nghiệp cũng nâng cao hiệu quả sản xuất, kiểm soát chất lượng nguyên liệu, giảm rủi ro thị trường và tăng uy tín thương hiệu. Chính quyền địa phương có thêm công cụ để quản lý vùng sản xuất, truy xuất nguồn gốc và hoạch định chính sách phát triển nông nghiệp địa bàn.

Một số hạn chế cần tháo gỡ
Dù đạt nhiều kết quả đáng ghi nhận, quá trình triển khai Nghị định 98 vẫn bộc lộ một số hạn chế cơ bản, khiến hiệu quả của liên kết chưa tương xứng với tiềm năng và mục tiêu đặt ra. Vấn đề lớn nhất hiện nay là tính bền vững của liên kết chưa cao. Ở nhiều nơi, mô hình liên kết vẫn dừng lại ở hình thức hợp đồng mua - bán sản phẩm, thiếu cam kết dài hạn và cơ chế ràng buộc về đầu tư, kỹ thuật hoặc tiêu chuẩn chất lượng. Khi giá thị trường biến động, cả doanh nghiệp lẫn nông dân đều có thể “bẻ kèo”, dẫn đến liên kết đứt gãy. Điều này cho thấy tư duy hợp tác trong sản xuất nông nghiệp vẫn chưa thực sự thấm sâu, còn mang nặng tính ngắn hạn.

Thứ hai, quy trình thủ tục hỗ trợ còn phức tạp và hành chính hóa. Nghị định 98 yêu cầu các chủ thể liên kết phải lập “dự án liên kết”, trình thẩm định, phê duyệt ở nhiều cấp, khiến doanh nghiệp và hợp tác xã đặc biệt là các đơn vị nhỏ khó tiếp cận nguồn hỗ trợ. Mặc dù có chính sách hỗ trợ tư vấn tối đa 300 triệu đồng/dự án, nhưng việc triển khai còn hạn chế, thiếu mạng lưới tư vấn chuyên nghiệp, dẫn đến nhiều mô hình không đủ năng lực lập hồ sơ, bỏ lỡ cơ hội hưởng chính sách.
Thứ ba, thiếu hạ tầng số và công cụ quản lý truy xuất nguồn gốc là điểm nghẽn đáng kể. Hầu hết các địa phương chưa có nền tảng số dùng chung để quản lý hợp tác xã, hợp đồng liên kết, vùng nguyên liệu và phát thải carbon. Dữ liệu về sản lượng, chất lượng và doanh thu còn phân tán, thiếu chuẩn hóa, khiến việc giám sát hiệu quả chính sách và nhân rộng mô hình còn chậm. Điều này cũng khiến liên kết chưa gắn được với xu thế chuyển đổi số và thương mại nông sản minh bạch toàn cầu.
Cuối cùng, năng lực tổ chức và quản trị của hợp tác xã còn yếu, doanh nghiệp thiếu động lực đầu tư dài hạn. Phần lớn hợp tác xã quy mô nhỏ, thiếu vốn, thiếu cán bộ kỹ thuật và kỹ năng quản trị hiện đại. Doanh nghiệp lại gặp khó trong việc tiếp cận tín dụng và thiếu cơ chế bảo hiểm rủi ro, nên chưa mặn mà trong đầu tư hạ tầng và vùng nguyên liệu lâu dài. Chính sách hỗ trợ hiện hành chủ yếu tập trung vào giai đoạn đầu tư, thiếu cơ chế “hỗ trợ theo kết quả” (output-based aid), nên chưa tạo được động lực duy trì liên kết bền vững.
Như vậy, những hạn chế trên phản ánh một thực tế: liên kết trong nông nghiệp Việt Nam tuy đã hình thành về lượng, nhưng chưa phát triển vững chắc về chất. Để liên kết trở thành trụ cột của nền nông nghiệp hiện đại, Việt Nam cần một khung chính sách mới linh hoạt hơn, gắn kết hơn với công nghệ số, tiêu chuẩn xanh và cơ chế chia sẻ rủi ro, qua đó biến hợp tác, liên kết thành "chuẩn mực" của sản xuất nông nghiệp trong kỷ nguyên hội nhập toàn cầu.
Tổng thể, có thể thấy rằng hợp tác và liên kết nông nghiệp ở Việt Nam đang ở giai đoạn phát triển năng động, nhưng chưa ổn định và đồng bộ. Các mô hình liên kết theo cơ chế thị trường và các chính sách như Nghị định 98 đã tạo nền tảng ban đầu quan trọng, nhưng để liên kết trở thành “xương sống” của nền nông nghiệp hiện đại, cần tiếp tục hoàn thiện cả ba khía cạnh: thể chế – năng lực tổ chức – và hạ tầng số. Đây chính là điểm xuất phát để chuyển sang phần tiếp theo – đánh giá kết quả cụ thể của việc triển khai Nghị định 98/2018/NĐ-CP trong sáu năm qua.
Tin liên quan
- Hợp tác xã sẽ tham gia nhiều hơn vào Dự án VnSAT
- Nông nghiệp Việt Nam: Tư duy xanh
- Tăng cường liên kết chuỗi giữa các chủ thể để phát triển nền nông nghiệp
- Tổng Giám đốc IRRI: Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao không còn phạm vi một quốc gia
- Sáng nay, ngày 18/8/2025 tại Thành phố Huế Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn tổ chức lớp tập huấn cán bộ quản lý nhà nước và cán bộ quản lý HTX về kinh tế tập thể, hợp tác xã trong lĩnh vực nông nghiệp
- Tổng kết công tác đổi mới, phát triển kinh tế tập thể
- Trồng lúa giảm phát thải, lợi nhuận tăng hơn 20%
- Tăng tốc nhân rộng mô hình lúa chất lượng cao, phát thải thấp
- Tháp Mười bứt phá Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp
- WB cam kết huy động tài trợ không hoàn lại cho Đề án một triệu hecta
