Hội nghị triển khai nhiệm vụ năm 2024 ngành Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn

Hội nghị triển khai nhiệm vụ năm 2024 ngành Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn

Sáng ngày 09/4/2024, được sự ủy quyền của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn đã tổ chức Hội nghị triển khai nhiệm vụ năm 2024 ngành Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn tại Khách sạn La Thành - Hà Nội.

ông Lê Đức Thịnh - Cục trưởng chủ trì và các Phó Cục trưởng: An Văn Khanh, Vũ Văn Tiến, Nguyễn Thị Yến, Huỳnh Kim Định đồng chủ trì Hội nghị.

anh Tiến 2

Ông Vũ Văn Tiến - Phó Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và PTNT phát biểu, giới thiệu đại biểu

Tham dự Hội nghị có các đại biểu đại diện cho các Bộ, ngành: Văn phòng Chính phủ, Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Lao động, Thương binh và Xã hội, Liên hiệp hợp tác xã Việt Nam...; các đơn vị thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Lãnh đạo Sở Nông nghiệp và PTNT, Chi cục Phát triển nông thôn của 63 tỉnh thành.

Hình ảnh Bà Nguyễn Thị Hoàng Yến - Phó Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn trình bày báo cáo tổng kết nhiệm vụ năm 2023 và triển khai kế hoạch năm 2024 của ngành Kinh tế hợp tác và PTNT,

Theo báo cáo của Cục Kinh tế hợp tác và PTNT, Ngay từ đầu năm, ngành Kinh tế hợp tác và PTNT đã chủ động ban hành Chương trình nhiệm vụ trọng tâm để tổ chức triển khai thực hiện và làm cơ sở kiểm điểm, tổng kết, đánh giá kết quả. Một số lĩnh vực của ngành ngày càng khẳng định được vị thế, vai trò đối với ngành Nông nghiệp như lĩnh vực kinh tế tập thể, hợp tác xã, ngành nghề nông thôn, cơ giới hóa nông nghiệp.... Đạt được những kết quả quan trọng này, ngành Kinh tế hợp tác luôn được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao, thường xuyên và tạo điều kiện giúp đỡ của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Lãnh đạo Bộ, các đơn vị trong và ngoài Bộ; sự phối hợp tích cực của các địa phương; sự chung sức, vượt khó, sáng tạo của cộng đồng doanh nghiệp, bà con nông dân và đồng hành của các cơ quan truyền thông, tạo sự đồng thuận của cả xã hội, cộng với sự nỗ lực, cố gắng và thống nhất cao của toàn ngành Kinh tế hợp tác; luôn luôn bám sát thực tiễn, vượt qua khó khăn, thách thức, triển khai quyết liệt các nhiệm vụ được giao qua đó cơ bản đạt được mục tiêu đề ra và góp phần vào tăng trưởng, phát triển chung của toàn Ngành nông nghiệp. Cụ thể:

- Về công tác chỉ đạo, điều hành của Ngành: Với 08 Văn bản quy phạm pháp luật được giao, đến nay đã trình ban hành 03 văn bản (i) Nghị quyết số 106/NQ-CP của Chính phủ về phát triển HTX NN trong tái cơ cấu ngành nông nghiệp và xây dựng NTM giai đoạn 2021-2025; (ii) Quyết định số 1058/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển ngành nghề nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; (iii) Thông tư số 24/2023/TT-BNNPTNT của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT về hướng dẫn một số nội dung thực hiện Quyết định số 590/QĐ-TTg ngày 18/5/2022 của Thủ tướng Chính phủ. Trình và chờ Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành 02 văn bản: Nghị định về cơ giới hoá, cơ giới hoá đồng bộ trong NN; Đề án đào tạo, chuyển đổi nghề lao động nông nghiệp, nông thôn vùng ĐBSCL giai đoạn 2022 - 2030. 01 văn bản được Chính phủ cho hoãn thời gian thực hiện đến sau khi Nghị định về CGH, CGH đồng bộ trong nông nghiệp được ban hành: Đề án đẩy mạnh cơ giới hóa đồng bộ trong nông nghiệp. 01 văn bản dự kiến trình trong tháng 6/2024: Nghị định về chính sách khuyến khích phát triển kinh tế trang trại. 01 văn bản không ban hành: Thông tư quy định về quản lý chất lượng máy, thiết bị có khả năng gây mất an toàn thuộc trách nhiệm quản lý của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Ngoài ra, các hoạt động truyền thông, Hội nghị, Hội thảo, diễn đàn đã được tham mưu và tổ chức thực hiện với sự tham gia nhiều Bộ, ngành, địa phương và tổ chức quốc tế. Qua đó, giúp cho việc triển khai các nhiệm vụ phát triển kinh tế hợp tác và phát triển nông thôn được thuận lợi…

Năm 2023 là năm toàn ngành Kinh tế hợp tác và PTNT tiếp tục hoàn thành tốt nhiệm vụ ở tất cả các lĩnh vực nhiệm vụ được giao.

1. Về phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã và trang trại

Khu vực kinh tế tập thể, HTX phát triển ổn định, tăng cả về số lượng và chất lượng. Đến hết năm 2023, cả nước có 100 Liên hiệp HTX và 20.789 HTX NN, trong đó khoảng 65% xếp loại khá, tốt và gần 2.500 HTX ứng dụng công nghệ cao, chuyển đổi số, đặc biệt có trên 4.339 HTX tham gia đảm nhận bao tiêu nông sản cho thành viên và 2.169 HTX là chủ thể Ocop. Doanh thu bình quân mỗi HTX đạt khoảng 2,5 tỷ đồng, đạt bình quân 400 triệu đồng/HTX/năm; thu nhập bình quân của lao động làm việc thường xuyên trong HTX đạt 52 triệu đồng/người/năm. Nhiều HTX đã và đang xây dựng và hình thành các vùng nguyên liệu đạt chuẩn, ổn định đáp ứng yêu cầu sản xuất trong nước và xuất khẩu. Tổng số thành viên tham gia HTX khoảng 3.801 nghìn thành viên với khoảng 1.582 nghìn LĐ làm việc thường xuyên trong HTX...

Hiện cả nước có 19.660 trang trại, trong đó: 3.308 TT trồng trọt, 12.349 TT chăn nuôi, 133 TT lâm nghiệp, 1.810 TT nuôi thủy sản, 2.060 TT tổng hợp. Có 1.034 TT đầu tư hệ thống điện năng lượng mặt trời, 56 TT tham gia hoạt động du lịch nông nghiệp, 4.235 TT có liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.

Đến nay có 2.204 HTX, 517 Tổ hợp tác, 1.091 DN và 186.829 hộ nông dân tham gia liên kết theo Nghị định số 98/2018/NĐ-CP. Hiện các địa phương đã phê duyệt được 2.146 dự án, kế hoạch liên kết. Việc tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị liên kết ngày càng được cải thiện và đã đạt được nhiều kết quả, tỷ lệ giá trị sản phẩm nông nghiệp được sản xuất dưới hình thức hợp tác và liên kết đạt khoảng 21,6%; trong đó nhiều sản phẩm chủ lực quốc gia đạt tỷ lệ % giá trị sản phẩm được sản xuất dưới các hình thức hợp tác và liên kết khá cao.

Sau gần 02 năm triển khai Đề án thí điểm xây dựng vùng nguyên liệu nông, lâm thủy sản đạt chuẩn, 05 vùng nguyên liệu ngày càng hình thành rõ nét, cụ thể: Các công trình hạ tầng đã hoàn thành công tác chuẩn bị đầu tư và bắt đầu chuyển sang công tác thi công xây dựng; các HTX đã được thành lập mới và củng cố lại..., trong các VNL đã có 56 chuỗi sản phẩm liên kết và 22 dự án/kế hoạch liên kết; có 26 DN; 60 HTX và 876 HND tham gia liên kết. Thực hiện cấp được 76 mã số vùng trồng cho các cây trồng như lúa gạo, sầu riêng, xoài với diện tích 3.059 ha; thành lập được 26 Tổ khuyến nông cộng đồng với sự tham gia của 168 thành viên tại 13 tỉnh (02 tổ/tỉnh). Các tỉnh tham gia đề án đã thành lập thêm 49 tổ khuyến nông cộng đồng với sự tham gia của 321 thành viên…

2. Về công tác phát triển ngành nghề nông thôn và đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn

Đến nay, cả nước có 216 nghề truyền thống, 2.039 làng nghề, làng truyền thống đã được công nhận. Tổng số cơ sở sản xuất ngành nghề nông thôn khoảng 880 nghìn cơ sở, bao gồm 13.201 DN, 5.592 HTX, 5.994 THT và trên 783.474 hộ gia đình, tạo việc làm cho trên 3,7 triệu lao động. Doanh thu các hoạt động ngành nghề nông thôn đạt trên 202.000 tỷ đồng, thu nhập bình quân đạt 4-5 triệu đồng/lao động/năm.

Đến nay, đã bước đầu hình thành được hệ thống các tài liệu, chương trình, giáo trình đào tạo mới, học liệu điện tử theo yêu cầu của thực tiễn. Bộ đã giao cho các Trường, đơn vị đào tạo tổ chức đào tạo nghề cho trên 4.768 lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo và lao động có thu nhập thấp và 1.295 lao động nông thôn được học nghề sản xuất các sản phẩm chủ lực, sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Các địa phương cũng đã tổ chức triển khai thực hiện và đào tạo được gần 200.000 người. Lao động trong các VNL được quan tâm đào tạo, nhất là đào tạo các kỹ năng về quản trị sản xuất, hạch toán kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm, ứng dụng công nghệ thông tin vào đào tạo đem lại hiệu quả.

3. Về lĩnh vực Bố trí dân cư nông thôn

Kết quả thực hiện Chương bố trí dân cư theo Quyết định số 590/QĐ-TTg, năm 2023 cả nước bố trí ổn định cho khoảng 6 nghìn hộ, góp phần hạn chế thiệt hại về người, tài sản do thiên tai gây ra, hạn chế di cư tự do, giải quyết việc làm, tăng thu nhập, góp phần giảm nghèo, bảo vệ môi trường và củng cố quốc phòng, an ninh. Các hộ dân DCTD tiếp tục được bố trí sắp xếp ổn định, cơ bản giảm tình trạng dân DCTD (năm 2021 có 127 hộ, năm 2022 chỉ có 22 hộ, trước và sau tết nguyên đán năm 2023 chỉ còn 06 hộ).

Đến nay có tổng số 152 dự án thủy lợi, thủy điện phải thực hiện công tác di dân, tái định cư, với tổng số hộ dân phải di dời tái định cư là 81.397 hộ (trong đó: số hộ đã di chuyển đến các điểm tái định cư là 77.429 hộ (chiếm 95,1%); số hộ chưa di chuyển là 3.968 hộ thuộc 25 dự án thủy lợi, thủy điện (chiếm 4,9%), trong đó: 86 dự án thuỷ điện, với tổng số hộ phải di dời, tái định cư là 67.320 hộ; 66 dự án thuỷ lợi, với tổng số hộ phải di dời, tái định cư là 14.062 hộ.

4. Về lĩnh vực Chính sách phát triển nông thôn

Có 48/48 tỉnh nhận hỗ trợ từ ngân sách Trung ương thực hiện Chương trình đã ban hành quy định mức vốn đối ứng từ ngân sách địa phương; có 45/48 tỉnh đã ban hành cơ chế tổ chức thực hiện hoạt động hỗ trợ phát triển sản xuất; 63/63 tỉnh đã ban hành Kế hoạch thực hiện Chương trình giai đoạn 2021-2025 và năm 2023; 42/48 tỉnh ban hành quy định về phân cấp quản lý, tổ chức thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia.

Đến nay có hơn 1.697 dự án hỗ trợ phát triển sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp cho khoảng 37.520 hộ nghèo, hộ cận nghèo và hộ mới thoát nghèo, mỗi dự án hỗ trợ trung bình từ 300 - 500 triệu/dự án, số người hưởng lợi trung bình từ 25-35 người/ dự án; tổ chức 371 lớp tập huấn, tư vấn quản lý tiêu thụ nông sản, thí điểm, nhân rộng các giải pháp sáng kiến phát triển sản xuất nông nghiệp gắn với chuỗi giá trị với 17.245 người tham gia.

5. Về lĩnh vực Cơ điện nông nghiệp, nông thôn và Diêm nghiệp

Cơ giới hoá nông nghiệp được Chính phủ, Bộ, địa phương, người dân ngày càng quan tâm, nhiều loại máy móc, thiết bị, công nghệ hiện đại được áp dụng trong sản xuất nông nghiệp, cơ giới hoá đồng bộ sản xuất các ngành hàng chủ lực đã phát triển tại một số địa phương. Qua đó một số công nghệ hiện đại đã được áp dụng trong sản xuất nông nghiệp như: Thiết bị bay không người lái (drone) phun thuốc BVTV, gieo hạt, phân, bơm nước thông minh... Nhiều khâu sản xuất nông nghiệp đã được cơ giới hóa, một số khâu đạt mức 100%. Một số địa phương đã hình thành các mô hình sản xuất lúa thông minh.

Tính đến hết năm 2023, diện tích sản xuất muối cả nước ước đạt 10.748,7 ha, trong đó: DT muối thủ công đạt 7.249,9 ha; DT muối CN đạt 3.497,7 ha; sản lượng muối đạt 883.783,5 tấn. Lượng muối tồn trong diêm dân và một số doanh nghiệp là 198.952,0 tấn.

Một số hình ảnh phát biểu tham luận của các Đại biểu

đại biểu phát biểu 2

Cũng theo báo cáo của Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, đánh giá kết triển khai nhiệm vụ của Ngành kinh tế hợp tác và PTNT năm 2023 cũng đã có mặt đạt được và một số khó khăn vướng mắc nhất định.

Mặt được (05 ưu điểm)

- Đã xây cơ bản dựng được hệ thống Văn bản Quy phạm pháp luật tương đối đồng bộ và ngày càng tiếp tục được hoàn thiện, qua đó góp phần củng cố công tác chỉ đạo điều hành xuyên suốt từ cấp trung ương đến địa phương, tăng mức độ hưởng lợi trực tiếp đến người dân khi tham gia.

- Một trong những thuận lợi của ngành Kinh tế hợp tác đó là có cả một hệ thống tổ chức từ cấp Trung ương đến địa phương: Gần 50 biên chế thực hiện nhiệm vụ tại Cục, 1.378 biên chế thực hiện nhiệm vụ tại các Chi cục và 571 biên chế thực hiện nhiệm vụ tại huyện nên việc triển khai công tác chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện nhiệm vụ cơ bản luôn đáp ứng được yêu cầu.
- Các lĩnh vực ngày càng khẳng định được vị trí, vai trò, chức năng trong công tác tham mưu về chính sách, xây dựng mô hình hỗ trợ phát triển sản xuất… Một số  nhiệm vụ như kinh tế tập thể, HTX; ngành nghề nông thôn; bố trí dân cư nông thôn ngày càng chủ động tham gia nhiều vào các Chương trình, đề án, dự án quan trọng của Bộ, của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ…
- Ngày càng chủ động hợp tác và chặt chẽ hơn với các đơn vị trong và ngoài Bộ; đồng thời cũng đã chủ động mở rộng hợp tác với các đối tác quốc tế ở một số lĩnh vực như kinh tế hợp tác; ngành nghề nông thôn...  
- Các hoạt động phối hợp với các Hội, Hiệp hội được ký kết giao ước nhằm đa dạng hóa các hình thức triển khai nhiệm vụ.
Một số hạn chế, khó khăn:
- Ngành Kinh tế hợp tác về cơ bản đã có hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, tuy nhiên đến nay một số lĩnh vực vẫn chưa được ban hành như lĩnh vực phát triển kinh tế trang trại, cơ giới hóa; một số tuy đã được ban hành nhưng cần phải điều chỉnh để phù hợp với thực tế hiện nay.
- Chất lượng, quy mô các mô hình thể chế còn hạn chế: HTX NN còn nhỏ lẻ, chưa thu hút được đông đảo thành viên tham gia…
- Các dự án bố trí sắp xếp dân cư tuy đã được thực hiện nhưng chưa chú trọng đến công tác hỗ trợ phát triển sản xuất sau tái định cư để đảm bảo sinh kế cho các hộ dân sinh sống trên địa bàn; việc lồng ghép các nguồn vốn từ các Chương trình, Đề án để hỗ trợ PTSX tại điểm bố trí dân cư còn hạn chế và chưa được quan tâm. Tình trạng dân di cư tự do đến địa bàn vùng biên giới phát sinh và tiềm ẩn nguy cơ mất trật tự an toàn xã hội do biến đổi khí hậu, dịch bệnh…
- Một số lĩnh vực chưa chú trọng đến thành lập, phát triển Hội, Hiệp hội như lĩnh vực diêm nghiệp, cơ điện nông nghiệp, ngành nghề nông thôn… Công tác tuyền thông ở một số lĩnh vực chưa thực sự được chú trọng.
- Đội ngũ cán bộ, biên chế ở một số Chi cục Phát triển nông thôn còn rất ít, kiêm nhiệm nhiều nhiệm vụ; công tác chuyển đổi số chưa thực sự được quan tâm, thực hiện.
Ngành Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn thống nhất xác định đoàn kết, quyết tâm, quyết liệt, linh hoạt, sáng tạo để phát huy vai trò, hiệu quả công tác tham mưu, lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ được giao năm 2024 và các năm tiếp theo với 05 phương châm chỉ đạo điều hành:
1. Chuyển đổi phương thức quản lý nhà nước trong tất cả các lĩnh vực theo hướng hỗ trợ thúc đẩy thay vì nặng về kiểm tra, kiểm soát.

2. Coi trọng thực tiễn và thường xuyên liên hệ với người dân, các địa phương (cơ quan quản lý nhà nước và chính quyền các cấp) trong thực hiện công tác tham mưu về chuyên môn, chính sách.

3. Tăng cường hợp tác về chuyên môn trong đơn vị để hỗ trợ nhau trong công tác và phối hợp chặt chẽ với các đơn vị chuyên ngành liên quan trong và ngoài ngành Nông nghiệp, các cơ quan chuyên môn các cấp ở địa phương.

4. Bên cạnh nhiệm vụ chính trị quan trọng nhất của Ngành là phát triển Kinh tế tập thể, HTX thì việc cần coi trọng việc phát triển các chuỗi liên kết, chuỗi giá trị giá trị nông sản, các cộng đồng nông thôn như: Cộng đồng các loại ngành nghề nông thôn, cộng đồng dân cư hậu tái định cư, cộng đồng diêm dân…

5. Tăng cường đoàn kết, mọi công việc quản lý cần thực hiện minh bạch, dân chủ, thực hiện đúng quy định pháp luật nhà nước và quy chế của đơn vị. Mỗi cán bộ từ lãnh đạo đến các chuyên viên không ngừng trau dồi kiến thức, thực hiện nhiệm vụ với trách nhiệm cao nhất của mình.

Thể chế  hóa các phương châm này, Ngành kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn đưa ra các quan điểm, mục tiêu:
Quyết tâm hoàn thiện và trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành các Văn bản quy phạm pháp luật theo tiến độ và kế hoạch được giao. Triển khai quyết liệt, đồng bộ và có hiệu quả một số nhiệm vụ trọng tâm công tác như các Đề án, Chương trình, Chiến lược đã được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và Bộ Nông nghiệp và PTNT phê duyệt. Xây dựng kế hoạch và triển khai đồng bộ công tác chuyển đổi số trên tất cả lĩnh vực hoạt động...
Mục tiêu cụ thể cho từng lĩnh vực:

Tập trung rà soát, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp.

Đa dạng hóa công tác truyền thông nhằm đẩy mạnh các hoạt động thông tin, tuyên truyền thuộc lĩnh vực của ngành Kinh tế hợp tác.

Nâng cao chất lương, hiệu quả hoạt động của HTX theo định hướng phát triển bền vững, ứng dụng KH - CN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; ưu tiên phát triển HTX gắn với phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế trí thức; mở rộng quy mô, thu hút nông dân, người sản xuất, kinh doanh nông nghiệp tham gia, đưa HTX trở thành mô hình KT - XH quan trọng ở khu vực nông thôn; góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng; tăng thu nhập cho người nông dân; bảo vệ môi trường, thích ứng với BĐKH; tạo điều kiện, động lực thu hút đầu tư, đẩy mạnh tái cơ cấu ngành NN và xây dựng NTM.

Thúc đẩy phát triển sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh, giá trị gia tăng cho các sản phẩm làng nghề; tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân; khôi phục, bảo tồn làng nghề, làng nghề truyền thống, nghệ nhân, thợ giỏi…

Hỗ trợ đào tạo hình thành đội ngũ nông dân chuyên nghiệp. Đổi mới nâng cao chất lượng đào tạo, nâng cao kỹ năng nghề và hiệu quả đào tạo nghề; đào tạo nhân lực chất lượng cao phục vụ sản xuất nông nghiệp thông minh, nông nghiệp sinh thái, hữu cơ; đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp, chuyển một bộ phận lao động nông thôn sang làm nông nghiệp dịch vụ, cho các vùng nguyên liệu phục vụ tái cơ cấu ngành nông nghiệp và ứng phó với BĐKH.

Phấn đấu đến năm 2025, cơ bản không còn tình trạng dân di cư tự do; hoàn thành công tác bố trí toàn bộ số hộ dân đã di cư tự do vào các điểm dân cư theo quy hoạch; hoàn thành việc nhập hộ khẩu, hộ tịch cho các hộ dân di cư tự do đủ điều kiện theo quy định... Rà soát, hoàn thiện chính sách về di dân, tái định cư và ổn định đời sống, sản xuất sau tái định cư các DA thủy lợi, thủy điện.

Tăng cường và nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác hỗ trợ PTSX để giảm nghèo ở cấp xã, huyện, đặc biệt là các xã nghèo, các xã vùng sâu, vùng xa, vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số. Hình thành các chuỗi liên kết liên huyện, liên tỉnh đối với các sản phẩm chủ lực của các vùng khó khăn (cây ăn trái, gỗ, gia súc, gia cầm, dược liệu, du lịch…); thúc đẩy phát triển mạnh mẽ hoạt động du lịch nông thôn.

Phát triển cơ giới hóa đồng bộ trong NN, ứng dụng công nghệ hiện đại, công nghệ thông minh, sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả và bảo vệ môi trường phù hợi với quy mô, trình độ sản xuất, lợi thế từng ngành hàng, vùng sản xuất nông nghiệp với các tổ chức sản xuất có quy mô lớn theo chuỗi giá trị nông sản; khuyến khích phát triển về chế tạo, cung cấp máy, thiết bị, công nghệ, dịch vụ CGH nông nghiệp, công nghệ hỗ trợ, chuyển giao khoa học công nghệ, các ý tưởng đổi mới, sáng tạo để phát triển cơ giới hóa vào sản xuất nông nghiệp.

Phát triển ngành muối theo hướng hiệu quả, bền vững trên cơ sở tận dụng tối đa lợi thế của các địa phương có truyền thống sản xuất muối để nâng cao năng xuất, chất lượng và đa dạng hóa các loại sản phẩm về muối nhằm đáp ứng nhu cầu muối trong nước, hướng đến xuất khẩu muối và tạo việc làm, nâng cao thu nhập, ổn định đời sống của người dân làm muối.

Toàn ngành Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn cũng đã xác định một số nhiệm vụ trọng tâm trong năm 2024 để làm cơ sở triển khai nhiệm vụ có hiệu quả

Hoàn thiện và trình Chính phủ ban hành Nghị định về chính sách khuyến khích phát triển kinh tế trang trại.

Tiếp tục đẩy mạnh tổ chức lại sản xuất, hợp tác xã, chuỗi giá trị trong bối cảnh biến đổi khí hậu, sản xuất xanh. Tập trung phát triển số lượng HTX, đặc biệt là củng cố và nâng cao năng lực cho các hợp tác xã trong các vùng nguyên liệu và trong các vùng thuộc đề án thí điểm 01 triệu ha lúa. Xây dựng và trình Bộ ban hành Đề án nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của HTX NN trong sản xuất, chế biến, bảo quản và thương mại nông sản, chế biến phụ phẩm nông nghiệp, phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn. Nghiên cứu xây dựng bổ chỉ tiêu, chỉ số đánh giá, xếp lại môi trường kinh doanh HTX cấp tỉnh. Hoàn thiện pháp luật về kinh tế trang trại, hợp tác xã, liên kết sản xuất theo. Tập trung chỉ đạo phát triển kinh tế trang trại, nhất là việc phát triển các mô trang trại kết hợp du lịch và trang trại hoạt động đa mục tiêu. Coi trọng và đẩy mạnh việc hỗ trợ HTX và Trang trại ứng dụng KHCN tiên tiến, CNC vào sản xuất và kinh doanh, công nghệ cao trong SXNN.

Ưu tiêu tập trung tổ chức đào tạo nghề tại các VNL, vùng trồng thuộc các đề án của Bộ đã phê duyệt. Nâng cao chất lượng đào tạo nghề của các Trường nghề, qua đó hướng các Trường nghề tham gia nhiều hơn công tác đào tạo nghề trong nông nghiệp. Phát huy kết quả Festival Bảo tồn và phát triển làng nghề Việt Nam năm 2023 để sớm xây dựng tiêu chí công nhận nghệ nhân, thợ giỏi. Phát triển VLN cho các làng nghề, thành lập các tổ chức hiệp hội ngành nghề.

Tập trung triển khai thực hiện có hiệu quả Chương trình bố trí dân cư, đồng thời rà soát lại các dự án cấp bách về ổn định dân di cư tự do và bố trí dân cư vùng có nguy cơ cao về thiên tai, bố trí dân cư biên giới tại các địa phương để tổ chức triển khai thực hiện theo đúng chỉ đạo của Chính phủ. Tổ chức các Hội nghị, Hội thảo bàn các giải pháp, kiến nghị về cơ chế, chính sách phát triển sinh kế, công nhận hành chính sau tái định cư. Tiếp tục hướng dẫn, chỉ đạo tổ chức thực hiện Nghị quyết số 22/NQ-CP của Chính phủ, phấn đấu đến năm 2025 cơ bản không còn tình trạng dân di cư tự do.

Triển khai thực hiện có hiệu quả Chiến lược phát triển cơ giới hóa nông nghiệp và chế biến nông lâm thủy sản đến năm 2030. Tổ chức thực hiện tốt các hoạt động về an toàn vệ sinh lao động và Chương trình quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.

Triển khai thực hiện các nhiệm vụ của Đề án Phát triển ngành muối giai đoạn 2021 - 2030. Phối hợp tổ chức thành công Festival nghề muối Việt Nam - Bạc Liêu năm 2024.

Đẩy mạnh công tác truyền thông, quảng bá kết quả và các hoạt động của ngành Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn.

Chú trọng công tác quản lý nhà nước trong xây dựng cơ sở dữ liệu; hệ thống báo cáo đánh giá và ứng dụng chuyển đổi số vào quản lý của Ngành.

Trên cơ sở đánh giá, thảo luận các nội dung, nhiệm vụ năm 2024 và các năm tới, ngành Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn cũng đưa ra một số đề xuất, kiến nghị với một số cơ quan, tổ chức:

-Đề nghị Văn phòng Chính phủ quan tâm, tham mưu Chính phủ ban hành Nghị định về chính sách khuyến khích phát triển kinh tế trang trại; Nghị định về cơ giới hoá, cơ giới hoá đồng bộ trong nông nghiệp.

- Đề nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, chỉ đạo các Hội nghị, Hội thảo: Hội nghị tổng kết 05 năm triển khai thực hiện Nghị định số 98/2018/NĐ-CP; Hội nghị 02 năm triển khai Đề án thí điểm xây dựng vùng nguyên liệu và Hội thảo đánh giá tình hình thực hiện chính sách pháp luật về di dân, tái định cư và ổn định đời sống, sản xuất sau tái định cư các dự án thủy lợi, thủy điện (đặc biệt chính sách sau tái định cư).
Cuối cùng, trên cơ sở các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra, ngành Kinh tế hợp tác và PTNT đề nghị Chi cục PTNT các tỉnh chủ động tham mưu cho tỉnh ban hành các Kế hoạch triển khai./.


© Bản quyền thuộc về Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn - Bộ Nông nghiệp và Môi trường.

Đ/c: Số 02 Ngọc Hà, Ba Đình, TP. Hà Nội.

Chịu trách nhiệm: Ông Lê Đức Thịnh - Cục Trưởng

Tel: 024.38438794 / Fax: 024.38438791 / Email: cucktht@gmail.com

Technology Supported by ECPVietnam